P-5 Pyatyorka (
Tiếng Nga: П-5 hay Пятёрка, định danh
NATO:
SS-N-3 Shaddock) là loại
tên lửa có cánh chống tàu do
Liên Xô sản xuất trong thời kỳ
Chiến tranh Lạnh.
Phòng Thiết kế Chelomey (OKB-52) chịu trách nhiệm thiết kế. Ký hiệu của
Cục Tên lửa và Pháo binh thuộc Bộ quốc phòng Liên bang Nga(
GRAU) là 4K48. Nó được đưa vào biên chế
Quân đội Liên Xô từ năm 1959. Pyatyorka thường được gọi là tên lửa số 5 tương ứng với chữ P-5 tương tự là tên lửa
R-7 Semyorka thường được gọi là tên lửa số 7.Phiên bản đầu tiên của tên lửa P-5 là loại tên lửa đạn đạo quán tính bắn từ
tàu ngầm. Nó được dùng như 1 lời răn đe của
Liên Xô vì các tàu ngầm trang bị Pyatyorka là một mối nguy hiểm lớn cho khu vực bờ biển của
Mỹ. Pyatyorka đời đầu tiên có thể mang theo một
đầu đạn hạt nhân có lượng nổ khoảng 200-350 kiloton cho dù nếu triển khai đầu đạn hạt nhân trên P-5 thì khối lượng của nó là gần 1000 kg. Tầm hoạt động của nó là 500 km và tốc độ tối đa là 0,9
Mach. Nó được triển khai trên
Tàu ngầm lớp Whiskey hay
dự án 665.Sau này, P-5 được thiết kế là một loại tên lửa chống hạm có sức công phá cao dùng để bổ sung cho tên lửa
P-15 Termit hay gọi là P-6 và P-35, phổ biến nhất là P-35,tuy vậy nhưng P-5 lại nhỏ và tầm bắn xa hơn P-15. Cả P-35 và P-15 đều có kích thước khá cồng kềnh nên được thay thế bằng các loại tên lửa hiện đại hơn sau này như
P-500 Bazalt và
P-700 Granit. Mẫu P-5 chống hạm đầu tiên được
NATO gọi là
SS-N-3C